Tên người Nhật

Tên người Nhật (日本人の氏名 (Nhật Bản nhân thị danh), Nihonjin no Shimei?) hiện đại thường bao gồm phần họ (姓 (せい) (Tính), sei?) đứng trước, phần tên riêng (名 (めい) (Danh), mei?) đứng sau. Thứ tự gọi tên này là chung cho các nước trong vùng ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa như Triều TiênViệt Nam. Ở Nhật Bản tên lót rất ít được sử dụng. Tên Nhật thường được viết bằng kanji, loại chữ Hán sử dụng tại Nhật và được đọc ý theo thổ âm Nhật (cách đọc này là kun'yomi (訓読み (huấn độc), kun'yomi?)). Chính vì tên viết bằng kanji đọc theo ý chứ không phải âm, một chữ kanji trong tên thường có nhiều cách phát âm khác nhau trong tiếng Nhật, tuy nhiên nhiều bố mẹ có thể đặt tên cho trẻ sơ sinh bằng hai bộ ký tự ký âm hiraganakatakana. Tên viết bằng hiragana và katakana chỉ mang ý nghĩa thông dịch về mặt ngữ âm, và vì vậy thiếu ý nghĩa trực quan của tên thể hiện trong chữ tượng hình kanji (điều này tương tự như tiếng Việt bỏ chữ Hán-Nôm, khi các từ đồng âm khác nghĩa gây ra sự hiểu sai nghĩa trong tên).Hiện nay ở Nhật có khoảng 100000 họ đang được sử dụng.[2] Những họ thông dụng ở Nhật hiện nay là Satō (佐藤 (Tá Đằng), Satō?), Suzuki (鈴木 (Linh Mộc), Suzuki?), Takahashi (高橋 (Cao Kiều), Takahashi?), Katō (加藤 (Gia Đằng), Katō?)[3]. Sự đa dạng này hoàn toàn trái ngược với các quốc gia khác trong cùng văn hoá Á Đông, phản ánh một lịch sử khác biệt của Nhật Bản: trong khi họ Trung Quốc đã được sử dụng từ hàng ngàn năm nay và thường phản ánh toàn bộ một gia tộc hoặc con nuôi của gia đình giàu có (có hoặc không có mối quan hệ di truyền) - và từ đó đã được lan truyền cho Triều Tiên và Việt Nam thông qua tên của các quan lại hoặc nhà giàu; đại đa số các họ hiện đại của Nhật Bản chỉ bắt đầu có từ thế kỷ thứ XIX, tiếp nối các cải cách thời kỳ Minh Trị trong những năm 1870, và được lựa chọn theo ý thích. Việc giới thiệu bằng họ của người Nhật gần đây có hai tác dụng bổ sung: tên tiếng Nhật trở nên phổ biến khi dân số nước này phát triển mạnh (hơn 30 triệu dân trong thời kì đầu của Minh Trị – xem Nhân khẩu học Đế quốc Nhật) so với số lượng trong quá khứ (ví dụ, dân số ước tính năm 1 của Công Nguyên là 300.000 - xem Nhân khẩu học Nhật Bản trước thời kì Minh Trị), và chỉ một thời gian ngắn trôi qua, các tên của người Nhật hầu như chưa gặp phải tình trạng tuyệt chủng về họ như đã xảy ra trong suốt quá trình lịch sử ở Trung Quốc.[4]Họ của người Nhật cũng xuất hiện nhiều hay ít tùy theo vùng, ví dụ như Chinen (知念 (Tri Niệm), Chinen?), Higa (比嘉 (Bỉ Gia), Higa?) và Shimabukuro (島袋 (Đảo Đại), Shimabukuro?) xuất hiện nhiều tại Okinawa trong khi không mấy phổ biến ở các vùng khác; điều này chủ yếu là do sự khác biệt giữa ngôn ngữ và văn hóa của người Yamato và người Okinawa. Nhiều họ của người Nhật được đặt dựa trên các hình ảnh nông thôn do ảnh hưởng của Thần đạo như Ishikawa (石川 (Thạch Xuyên), Ishikawa?) có nghĩa là sông đá, Yamamoto (山本 (Sơn Bản), Yamamoto?) có nghĩa là chân núi, Inoue (井上 (Tỉnh Thượng), Inoue?) có nghĩa là trên miệng giếng.Trong khi phần họ tuân theo các quy tắc tương đối phù hợp, tên riêng tỏ ra đa dạng hơn nhiều lần trong cách phát âm và cách sử dụng kanji. Trong khi nhiều tên gọi thông thường có thể dễ dàng viết ra hoặc phát âm, nhiều bậc cha mẹ chọn tên với các mẫu tự kanji hay cách phát âm ít gặp, và những cái tên như vậy nói chung không thể viết hay phát âm được nếu không có cả phần mẫu tự và phát âm. Cách phát âm ít gặp này gần đây trở nên đặc biệt phổ biến, khi xu hướng đặt tên như vậy đã tăng lên đáng kể từ những năm 1990.[5][6] Ví dụ, một cái tên bé trai phổ biến 大翔 theo truyền thống được phát âm là "Hiroto", nhưng trong những năm gần đây có các cách phát âm thay thế như "Haruto", "Yamato", "Taiga", "Sora", "Taito", "Daito", và "Masato" đều được sử dụng.[5]Có rất nhiều cách đọc một tên riêng cho một cách viết và cũng có rất nhiều cách viết cho một cách đọc. Tên của phái nam thường có âm tận cùng là -rō (郎 (Lang), -rō?) (con trai), như Ichirō, ngoài ra còn có thể là -rō (朗 (Lãng), -rō?) (sáng); -ta (太 (Thái), -ta?) (rất lớn), như Kenta; -ichi (一 (Nhất), -ichi?) (con trai cả) - như Ken'ichi, -kazu (一 (Nhất), -kazu?) - như Kazuhiro, -ji (二 (Nhị), -ji?) (con trai thứ hai) - như Jirō, -tsugi (次 (Thứ), -tsugi?) (con trai thứ). Tên của phái nữ thường kết thúc bằng -ko (子 (Tử), -ko?) (con) - như Keiko; -mi (美 (Mỹ), -mi?) (đẹp) - như Yumi; -ka (香 (Hương), -ka?) - như Reika; -hana (花 (Hoa), -hana?).

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tên người Nhật http://www.csse.monash.edu.au/~jwb/cgi-bin/wwwjdic... http://www.babynames.ch/Info/Language/laJapanese http://japanese.about.com/library/weekly/aa050601a... http://www.japanese-name-translation.com/site/japa... http://www.japanese-name-translation.com/site/top5... http://www.japanorama.com/namesinj.html http://potboilerpress.com/ http://potboilerpress.com/index.php?main_page=prod... http://park14.wakwak.com/~myj/ http://hsblogs.stanford.edu/morrison/